Thứ Ba, 7 tháng 8, 2012

Habubank sáp nhập thành công vào SHB


Ngân hàng Nhà nước chiều 7/8 ký quyết định chính thức chấp thuận sáp nhập Habubank vào SHB - giúp hoàn tất thương vụ tái cơ cấu tự nguyện đầu tiên trong ngành ngân hàng. Cái tên Habubank theo đó sẽ không tồn tại.

>> Tầm nhìn sứ mệnh của Habubank khi Habubank nợ xấu chấm hết
>> Cơ cấu tổ chức sau khi tin Habubank nợ xấu đẩy lùi
>> Lịch sử phát triển - Habubank nợ xấu

Tiết lộ với VnExpress.net chiều 7/8, ông Nguyễn Văn Lê - Tổng giám đốc Ngân hàng thương mại cổ phần thương mại Sài Gòn Hà Nội (SHB) cho biết, Ngân hàng Nhà nước ký Quyết định 1559 về việc sáp nhập Ngân hàng thương mại Nhà Hà Nội (Habubank) vào Ngân hàng thương mại Sài Gòn Hà Nội (SHB). Như vậy sau nhiều tháng tiến hành các thủ tục sáp nhập và gây xôn xao trong dư luận với những phương án chuyển đổi cổ phiếu "chưa từng có", thương vụ SHB - Habubank đã chính thức hoàn tất.

Tổng giám đốc SHB cho biết, nếu lấy thời điểm Đại hội cổ đông thường niên ngày 5/5 làm mốc, tiến trình sáp nhập Habubank và SHB đã kéo dài hơn 3 tháng trước khi chính thức được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Như vậy, kể từ ngày hôm nay (7/8), cái tên Habubank sẽ không còn tồn tại mà thay vào đó sẽ dùng tên của chính SHB.

Ông Nguyễn Văn Lê cho biết, những ngày tới sẽ dần tiến hành các công việc để sáp nhập mạng lưới, chi nhánh và toàn bộ hệ thống của Habubank trước đây vào SHB.

Theo đề án sáp nhập giữa hai ngân hàng được công bố, Ngân hàng SHB sau khi sáp nhập Habubank sẽ có tổng tài sản trên 100.000 tỷ đồng (tương đương với quy mô của các nhà băng trong khối G12). Tổng vốn điều lệ sẽ trên 9.000 tỷ đồng.

Trước đó, trao đổi với báo chí, Chủ tịch SHB Đỗ Quang Hiển (thường được biết tới với cái tên Bầu Hiển) cho biết, để có được hệ thống chi nhánh, nhân sự và mạng lưới khách hàng của HBB, SHB phải mất ít nhất 5 năm. Như vậy, với việc sáp nhập Habubank, thay vì 5 năm, SHB rút ngắn được xuống 3 tháng, tiết kiệm được chi phí và thời gian đưa SHB lên một tầm cao mới.

Sau sáp nhập, tổng số nhân viên của SHB sẽ đạt gần 5.000 người, chính bằng tổng nhân viên của hai nhà băng trên gộp lại). Tính đến nay, cả hai ngân hàng SHB và Habubank có khoảng 54 chi nhánh và hơn 150 phòng giao dịch

Thứ Hai, 6 tháng 8, 2012

ABBank thay tổng giám đốc


Ông Đặng Quang Minh thôi chức từ hôm nay (7/8), nhiều khả năng ông Phạm Duy Hiếu - Tổng giám đốc VietABank sẽ là người lên thay.

>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank
>> Đẩy lùi tin Habubank nợ xấu - Habubank cho vay mua nhà
>> Nợ xấu Habubank được khép lại
>> Habubank hết nợ xấu ngày một phát triển

Theo Ngân hàng cổ phần An Bình (ABBank), hôm nay (7/8), ông Đặng Quang Minh sẽ thôi giữ chức Tổng giám đốc nhà băng này. Người thay ông Minh làm tổng giám đốc có khả năng là ông Phạm Duy Hiếu, Tổng giám đốc ngân hàng TMCP Việt Á (VietABank) và hiện cũng là cố vấn tài chính của ABBank.

Tuy nhiên, việc bổ nhiệm tổng giám đốc mới của ABBank sẽ còn phải chờ sự xem xét và chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước.

Ông Phạm Quang Minh sinh năm 1972, là cử nhân đại học Tài chính kế toán Hà Nội, Thạc sĩ quản trị kinh doanh. Ông Minh đã có 19 kinh nghiệm trong lĩnh vực kế toán, tài chính, ngân hàng, trong đó có hơn 6 năm làm việc tại ABBank. Ông Minh mới được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc ABBank khoảng 1 năm, trước đó ông làm Phó Tổng giám đốc ABBank.

Trong khi đó, ông Phạm Duy Hiếu, người có khả năng trở thành Tổng giám đốc mới của ABBank sinh năm 1978, là thạc sỹ tài chính, lưu thông tiền tệ và tín dụng - Đại học Kinh tế quốc dân, Cử nhân Ngoại ngữ - Đại học Ngoại ngữ.

Ông Hiếu mới được bổ nhiệm làm Tổng giám đốc VietABank đầu năm 2012, trước đó ông làm Phó tổng giám đốc phụ trách Khối khách hàng doanh nghiệp kiêm Giám đốc Sở giao dịch ABBank; Giám đốc điều hành văn phòng TPHCM - công ty cổ phần chứng khoán Vincom (nay là công ty cổ phần chứng khoán Xuân Thành).

Bên cạnh đó, hiện ABBank cũng còn 4 Phó tổng giám đốc là ông Nguyễn Công Cảnh (sinh năm 1958), ông Bùi Trung Kiên (sinh năm 1973), bà Nguyễn Thị Ngọc Mai (sinh năm 1974) và bà Phạm Thị Hiền (sinh năm 1973).

Phó tổng BIDV về làm CEO Ngân hàng Việt Nga


Ông Phạm Đức Ấn - Phó tổng giám đốc BIDV - được "biệt phái" đảm nhiệm Tổng giám đốc Ngân hàng Liên doanh Việt - Nga từ hôm nay (6/8).

>> Cơ cấu tổ chức sau khi tin Habubank nợ xấu đẩy lùi
>> Thanh toán quốc tế - Habubank nợ xấu

Theo Quyết định của Hội đồng Thành viên VRB, ngày 30/7, ông Phạm Đức Ấn – Phó tổng giám đốc BIDV, được cử biệt phái sang công tác tại Ngân hàng Liên doanh Việt – Nga (VRB). Từ ngày 6/8, ông Phạm Đức Ấn sẽ đảm nhận chức vụ tổng giám đốc của Ngân hàng Liên doanh Việt – Nga.

Ông Phạm Đức Ấn (sinh năm 1970), có bằng thạc sỹ quản trị kinh doanh. Ông đảm nhiệm chức vụ Phó tổng giám đốc BIDV từ tháng 6/2011.

Ngân hàng liên doanh Việt Nga (VRB) là liên doanh giữa hai Ngân hàng hàng đầu của hai nước là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng VTB. BIDV và VTB có mức góp vốn điều lệ ngang nhau. Ngân hàng liên doanh Việt Nga có vốn điều lệ 168,5 triệu USD (tương đương hơn 3.008 tỷ đồng tại thời điểm tăng vốn).

Chủ Nhật, 5 tháng 8, 2012

PG Bank 'vượt cửa ải' 3.000 tỷ đồng vốn điều lệ

Cuối cùng thì Ngân hàng Xăng dầu cũng hoàn tất việc tăng vốn điều lệ theo quy định tối thiểu sau 2 năm tưởng chừng như "đi vào ngõ cụt". Như vậy, hiện chỉ còn BaoViet Bank có vốn dưới 3.000 tỷ.

>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank
>> Đẩy lùi tin Habubank nợ xấu - Habubank cho vay mua nhà
>> Nợ xấu Habubank được khép lại
>> Habubank hết nợ xấu ngày một phát triển

Theo Nghị định 141/NĐ-CP, mức vốn pháp định của các ngân hàng tối thiểu là 3.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước tính đến hết tháng 6, toàn hệ thống vẫn còn Ngân hàng thương mại cổ phần Bảo Việt (BaoVietBank) - vốn điều lệ 1.500 tỷ đồng và Ngân hàng thương mại cổ phần Xăng dầu (PG Bank) vốn điều lệ 2.000 tỷ đồng.

Đầu tháng 8, Ngân hàng thương mại cổ phần Xăng dầu Petrolimex (PG Bank) thông báo hoàn tất việc tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng sau nhiều năm rơi vào bế tắc do các cổ đông lớn Nhà nước của ngân hàng này không được góp thêm vốn. Tại PG Bank, cổ đông lớn là Petrolimex nắm giữ 40% vốn. Nếu tăng vốn, Petrolimex cần góp thêm tiền để giữ nguyên tỷ lệ sở hữu nhưng theo quy định, việc này cần được sự cho phép của Thủ tướng. Do đó, việc nâng vốn lên 3.000 tỷ của PG Bank bị "tắc" trong một thời gian dài.

Trao đổi với VnExpress.net, ông Nguyễn Quang Định - Tổng giám đốc PG Bank - thừa nhận: "Kế hoạch tăng vốn của ngân hàng bị trì hoãn và gặp nhiều khó khăn trong 2 năm qua. Tuy nhiên, sau khi hoàn tất việc tăng vốn lên 3.000 tỷ theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, PG Bank sẽ tiếp tục tập trung khai thác các sản phẩm mới và mở rộng mạng lưới hoạt động".

Báo cáo tài chính tính đến hết ngày 30/6 của PG Bank cho biết, vốn điều lệ của ngân hàng này mới chỉ đạt 2.360 tỷ đồng - tăng hơn 360 tỷ so với cuối năm. Quý II, PG Bank lãi 96 tỷ đồng, lũy kế 6 tháng đầu năm đạt 233 tỷ đồng. Tổng tài sản của PG Bank đạt 19.413 tỷ đồng, tổng tiền mặt, vàng bạc, đá quý tại cuối quý II đạt 245,95 tỷ, tăng 8,2 tỷ so với đầu năm. Năm 2012, PG Bank đặt mục tiêu tăng tổng tài sản lên mức 25.684 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 700 tỷ đồng.

Như vậy, hiện nay toàn hệ thống chỉ còn BaoViet Bank có vốn điều lệ dưới 3.000 tỷ đồng. Tính đến hết ngày 30/6, báo cáo tài chính quý II của ngân hàng này cho biết vốn điều lệ vẫn là 1.500 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 12.915 tỷ đồng (giảm khoảng 300 tỷ đồng so với đầu năm).

Thứ Sáu, 3 tháng 8, 2012

NH lớn nâng lãi suất các kỳ hạn dài


Ngân hàng này vừa nâng lãi suất huy động kỳ hạn 24, 36 và 48 tháng lên 10% một năm sau hơn một tháng không dao động trước các cuộc đua lãi suất kỳ hạn dài.

>> Tầm nhìn sứ mệnh của Habubank khi Habubank nợ xấu chấm hết
>> Cơ cấu tổ chức sau khi tin Habubank nợ xấu đẩy lùi
>> Lịch sử phát triển - Habubank nợ xấu

Theo biểu lãi suất mới, Vietcombank đồng loạt thay đổi mức lãi suất với các kỳ hạn dài 24, 36, 48 và 60 tháng từ 9,5% lên 10% một năm. Như vậy, sau hơn một tháng giữ nguyên biểu lãi suất cũ, "ông lớn" Vietcombank cũng nâng lãi suất huy động các kỳ hạn dài lên cao. Tuy nhiên, riêng kỳ hạn 12 tháng, lãi suất tiết kiệm lại giảm 1 điểm phần trăm so với trước đó, xuống còn 10% một năm.

Mức lãi suất mới thay đổi của Vietcombank hiện đã bằng với lãi suất kỳ hạn dài tại BIDV. Trong khi đó, tại Vietinbank, lãi suất tiết kiệm cao nhất là 11% một năm, áp dụng cho kỳ hạn 12 tháng. Trong khi đó, lãi suất với các kỳ hạn trên 12 tháng cao nhất chỉ 9,5% một năm.

Ở khối ngân hàng cổ phần, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn dài (theo niêm yết) vẫn cao nhất ở 12,5% một năm.

Thứ Năm, 2 tháng 8, 2012

Ngân hàng càng lớn, càng nhiều nợ xấu


42% nợ xấu của 8 ngân hàng niêm yết là những khoản có thể mất trắng. Trong khi đó, các "ông lớn" như Vietcombank, Vietinbank chiếm 70% nợ xấu của nhóm này.

>> Chấm dứt Habubank nợ xấu đi đến thành công
>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank
>> Đẩy lùi tin Habubank nợ xấu - Habubank cho vay mua nhà

Theo báo cáo tài chính quý II công ty mẹ của 8 ngân hàng niêm yết, tổng nợ xấu các đơn vị này đang gánh lên tới 20.726 tỷ đồng. Trong đó, nợ nhóm 5 - có khả năng mất vốn - chiếm tới 40%.

Trong số 8 nhà băng niêm yết, nợ nhóm 5 - nợ có khả năng mất vốn - nhóm có nguy cơ rủi ro cao nhất - của Vietcombank và Eximbank đều chiếm quá nửa tổng nợ xấu. Trong khi đó, cơ cấu nợ xấu cho hay, nợ có khả năng mất vốn của 8 ngân hàng đều chiếm ít nhất một phần ba "cục máu đông" nợ xấu.

Vietinbank và Sacombank là 2 ngân hàng có tốc độ gia tăng nợ xấu cao nhất so với thời điểm đầu năm 2012. Nợ xấu của Vietinbank tăng hơn 3 lần đầu năm, từ hơn 2.000 tỷ lên gần 7.000 tỷ đồng. Còn Sacombank, nợ xấu của ngân hàng này tăng hơn 2 lần.

Nhìn vào bảng thống kê số liệu nợ xấu của 8 ngân hàng niêm yết có thể thấy rõ, ngân hàng quy mô càng lớn thì "cục máu đông" nợ xấu càng "đặc". Tính đến hết ngày 30/6, nợ xấu của Vietcombank lẫn Vietinbank "đội" thêm hàng nghìn tỷ. Vietcombank tăng từ hơn 4.000 tỷ lên gần 7.500 tỷ trong khi Vietinbank tăng gấp 3 lần từ 2.000 tỷ lên gần 7.000 tỷ đồng. Nếu xét riêng 8 nhà băng đang niêm yết trên sàn, nợ xấu của hai "ông lớn" quốc doanh Vietcombank, Vietinbank chiếm 70% tổng nợ xấu của các ngân hàng.
Nợ xấu 8 ngân hàng niêm yết tại thời điểm 30/6 và 1/1/2012. Đơn vị: tỷ đồng.

Bình luận về những con số này, Tiến sĩ Lê Xuân Nghĩa - thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách tiền tệ - cho hay, công bố nợ xấu của Vietcombank thường cao hơn các ngân hàng khác một chút, nguyên nhân là họ hạch toán nợ gần với chuẩn quốc tế nhất. Mặc dù vậy, ông Nghĩa nhìn nhận việc nợ xấu tăng lên hàng nghìn tỷ sau 6 tháng đầu năm là đáng lo ngại. "Cục máu đông nợ xấu đã quá lớn làm tăng mạch máu khiến hệ thống tuần hoàn không thể đẩy máu lưu thông được nữa", chuyên gia này ví von.

Trong khi đó, chuyên gia ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu lại cho rằng việc các ngân hàng lớn như Vietcombank, Vietinbank có số nợ xấu cao là dễ hiểu bởi quy mô hoạt động lớn nên quy mô nợ cũng không thể nhỏ. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Trí Hiếu, nguyên nhân chính khiến nợ xấu của các "ông lớn" tăng cao có thể vì họ phải "ôm" quá nhiều nợ từ doanh nghiệp Nhà nước làm ăn không hiệu quả.

Tuy nhiên, theo ông Lê Xuân Nghĩa - nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban giám sát tài chính quốc gia - nợ đọng trong khối doanh nghiệp tư nhân không phải ít trong bối cảnh kinh tế quá khó khăn như này. "Hiện có một vài doanh nghiệp tư nhân thậm chí còn nợ gấp 3, gấp 4 lần Vinashin, Vinalines", ông Nghĩa tiết lộ với VnExpress.net.

Với tốc độ gia tăng chóng mặt, nợ xấu đã trở thành câu chuyện ám ảnh tại hầu hết các ngân hàng trong nửa năm trở lại đây. Phó phòng khách hàng doanh nghiệp tại một ngân hàng cổ phần trên phố Trần Hưng Đạo (Hà Nội) cho biết, nhiều cán bộ tín dụng đã bị giữ lại 30% lương vì để nợ xấu tăng lên cao và khó thu hồi. "Làm vậy để các nhân viên mạnh tay hơn trong việc đôn đốc, thúc giục khách hàng trả nợ", vị cán bộ này lý giải.

Bản thân Vietinbank, "ông lớn" quốc doanh có nợ xấu tăng thêm 4.700 tỷ đồng so với đầu năm cũng vừa có động thái chấn chỉnh tình trạng nợ xấu. Một vài ngân hàng bắt đầu xử lý cán bộ tình dụng để nợ xấu leo cao. Vietinbank cùng một lúc sa thải 15 cán bộ Chi nhánh Bến Tre (gồm cả ban giám đốc chi nhánh ngân hàng) vì để xảy ra nhiều sai phạm trong hoạt dộng điều hành nghiệp vụ, gây nợ xấu lớn.
Năm ngoái, nợ xấu toàn ngành chỉ 3,07% nhưng đã tăng gấp rưỡi lên 4,47% vào năm nay. Tuy nhiên, 4,47% là con số do các ngân hàng thương mại báo cáo trong khi con số Thanh tra Ngân hàng Nhà nước đưa ra là 8,6% tương đương 202.000 tỷ đồng (tính đến hết tháng 3). Chính Ngân hàng Nhà nước cũng thừa nhận những câu chuyện giấu nợ xấu, làm đẹp bản báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại.

Nhìn vào những con số nợ xấu trong quý II đã công bố, một chuyên gia tài chính cho rằng sở dĩ nợ xấu tăng mạnh là do nhiều ngân hàng đã biết "sợ" nên phân loại, trích lập dự phòng "có phần đầy đủ hơn". Tuy nhiên, vị này vẫn tin rằng: "Kể cả ngân hàng lớn lẫn nhỏ đều trích lập dự phòng rủi ro chưa đầy đủ nên bức tranh về lợi nhuận của họ có thể đã được tô hồng hơn thực tế".

Thứ Tư, 1 tháng 8, 2012

Ngân hàng - chủ đầu tư cứu nhau


Với ngân hàng việc thu nợ từ phía người dân còn dễ hơn nhiều khi thu của chủ đầu tư nhất là trong bối cảnh này.

Lo ngại lãi suất biến động

>> Chấm dứt Habubank nợ xấu đi đến thành công
>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank
>> Đẩy lùi tin Habubank nợ xấu - Habubank cho vay mua nhà

Vài tháng qua, các ngân hàng thương mại lớn đã đồng loạt ký kết hợp đồng tín dụng với các chủ đầu tư dự án. Theo đó, khách hàng mua nhà tại những dự án này sẽ được hỗ trợ tín dụng với mức rất hấp dẫn.

Tiên phong trong vấn đề này, là ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), cụ thể trong chương trình liên kết 4 nhà, BIDV dành gói tín dụng 4.000 tỉ đồng cho khách hàng vay mua nhà với lãi suất chỉ 12%/năm trong vòng 6 tháng đầu tiên. Cũng với mức lãi suất này, NH TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) vừa công bố sẽ dành 2.000 tỉ đồng để cho khách vay kinh doanh, mua, sửa chữa nhà.

Đáng chú ý, mới đây, NH TMCP Quốc tế (VIB) tung ra chương trình cho vay mua, xây, sửa nhà với lãi suất chỉ 9,9%/năm trong 3 tháng đầu tiên. Tổng hạn mức của gói tín dụng này là 1.000 tỉ đồng.

Không chỉ có ngân hàng, mà nhiều chủ đầu tư cũng mạnh tay hỗ trợ lãi suất cho khách hàng như chủ đầu tư dự án Nam Đô Complex (Trương Định). Theo đó, khách hàng mua nhà sẽ được chủ đầu tư tiếp tục giảm thêm 4% lãi suất. Tại dự án Golden Land (Nguyễn Trãi), chủ đầu tư cũng cam kết hỗ trợ lãi suất cho khách hàng .....

Tuy nhiên, theo phản ánh thì dường như khách hàng lại rất thờ ơ trước sự “thiện tình” của các ngân hàng và chủ đầu tư.

Chị Phạm Nguyệt Nga (nhà đầu tư) cho biết, các ngân hàng chưa thực sự “cởi mở” với khách hàng vay tiền mua nhà. Bởi trong hợp đồng mua nhà có cam kết vay vốn, các ngân hàng chỉ để thời gian vay vốn với mức lãi suất “rẻ” khoảng 3-6 tháng. Trong khi thời gian trả nợ có thể kéo dài 3-5 năm. “Lãi suất luôn luôn biến động, năm 2011 lãi suất đã từng tăng vọt từ mức 12-13% lên mức 25-26%/năm. Vì vậy, chẳng có điều gì đảm bảo rằng, hết thời hạn hỗ trợ, ngân hàng sẽ không điều chỉnh lãi suất tăng. Chính vì thế mà nhiều người vẫn khá thận trọng”chị Nga cho biết.

Ngân hàng, chủ đầu tư tự cứu nhau

Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, việc ngân hàng và chủ đầu tư cùng bắt tay nhau để hỗ trợ khách hàng thực chất là hình thức hợp tác hai bên cùng có lợi.

Ông Phan Xuân Cần – Chủ tịch HĐQT công ty tư vấn bất động sản Sohovietnam cho biết, việc ngân hàng và chủ đầu tư cam kết hỗ trợ cho khách hàng lãi suất vay chỉ được ấn định khoảng 3-6 tháng đầu tiên. Đây là điều không hề chắc chắn với người mua. Ngoài ra, hầu hết những dự án được ngân hàng cam kết hỗ trợ lãi suất đều là những dự án mà các ngân hàng này “rót” vốn cho vay trước đó. Vì vậy, các ngân hàng sẽ tiếp tục cho khách hàng vay để mua nhà tại dự án. Làm như vậy, ngân hàng vừa cho vay được tiền, chủ đầu tư vừa bán được hàng.

“Trong bối cảnh khó khăn như hiện nay, xem ra việc thu nợ từ khách hàng có phần dễ hơn thu nợ từ chủ đầu tư. Bởi, người mua nhà tham gia chương trình hỗ trợ lãi suất, hàng tháng họ sẽ chi trả bằng quỹ tiền lương đều đều 5-7 triệu đồng/tháng. Điều này dễ dàng hơn nhiều khi mà cho chủ đầu tư vay nợ đến hàng trăm tỷ đồng" ông Cần cho biết.

Cũng theo ông Cần, trong trường hợp chủ đầu tư không bán được hàng thì cả ngân hàng và chủ đầu tư đều chết như nhau. Vì vậy, ngân hàng sẽ phải tài trợ vốn cho chính dự án mình cho vay và chủ đầu tư cũng giảm giá xuống hỗ trợ cho khách hàng.

Theo phân tích TS kinh tế Lê Đạt Chí, các ngân hàng chủ yếu đưa ra mức lãi suất rẻ ở giai đoạn đầu. Vì vậy, người đi vay cần thận trọng và phải lường trước những vấn đề có thể phát sinh, như nguy cơ tăng lãi suất, bởi đa phần thời gian vay thường trên 3 năm trong khi lãi suất thấp chỉ được áp dụng trong 3 - 6 tháng đầu. Chính vì vậy, người vay phải có thỏa thuận cụ thể về mức lãi suất sau này. Có thể là cộng thêm 3% so với lãi suất huy động để không xảy ra tình trạng lãi suất bị đẩy lên cao ngoài ý muốn như thực tế từng xảy ra. Ngoài ra, cũng cần phải tính đến việc bị phạt lãi suất nếu trả vốn trước hạn.

Thứ Ba, 31 tháng 7, 2012

VPBank tuyển nhân sự tại Hà Nội

Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) tuyển trưởng nhóm bán hàng trực tiếp và chuyên viên bán hàng trực tiếp (thuộc khối khách hàng cá nhân, VPBank hội sở), làm việc tại Hà Nội.

>> Chấm dứt Habubank nợ xấu đi đến thành công
>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank
>> Đẩy lùi tin Habubank nợ xấu - Habubank cho vay mua nhà

Ở vị trí trưởng nhóm bán hàng trực tiếp, ngân hàng ưu tiên ứng viên có kinh nghiệm trong kinh doanh sản phẩm ngân hàng, hoặc có kinh nghiệm về marketing tại vị trí trưởng nhóm bán hàng trực tiếp. Ứng viên phải có tối thiểu hai năm kinh nghiệm quản lý, am hiểu về các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng, trình độ đại học trở lên.

Ở vị trí nhân viên hoặc chuyên viên bán hàng trực tiếp, VPBank hội sở ưu tiên ứng viên có kinh nghiệm marketing và kinh doanh các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng. Ứng viên có tối thiểu hai năm kinh nghiệm tại vị trí cần sự tương tác với số lượng lớn khách hàng, am hiểu về các sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng, trình độ đại học trở lên.

Thông tin chi tiết về mô tả công việc, ứng viên xem tại: http://tuyendung.vpb.com.vn, hoặc gửi CV về địa chỉ email: vanht1@vpb.com.vn. Ngân hàng nhận hồ sơ đến ngày 31/8, ưu tiên ứng viên nộp hồ sơ sớm. Bên cạnh những cơ hội nghề nghiệp trên, ngân hàng còn nhiều cơ hội khác chào đón các bạn.

Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Chương trình "Thỏa sức tiêu dùng - an tâm kinh doanh"


Từ nay đến hết ngày 2/9, Ngân hàng An Bình (ABBank) triển khai chương trình "Thỏa sức tiêu dùng - an tâm kinh doanh" dành cho vay cá nhân với lãi suất ưu đãi 13-15% một năm.

>> Chấm dứt Habubank nợ xấu đi đến thành công
>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank
>> Đẩy lùi tin Habubank nợ xấu - Habubank cho vay mua nhà

Các khách hàng cá nhân, hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân đủ điều kiện vay vốn và được giải ngân trong khoảng thời gian đến ngày 2/9, thời hạn vay từ 12 tháng trở lên sẽ được áp dụng ngay các mức lãi suất ưu đãi như: áp dụng mức lãi suất 13% một năm đối với nhóm sản phẩm cho vay kinh doanh (bao gồm cho vay sản xuất kinh doanh trả góp, cho vay bổ sung vốn lưu động). Đối với nhóm sản phẩm cho vay tiêu dùng có thế chấp, ngân hàng áp dụng mức lãi suất 13,5% một năm cho sản phẩm vay mua hoặc xây sửa nhà và mức lãi suất 15% đối với sản phẩm cho vay mua ôtô, cho vay du học, cho vay tiêu dùng có thế chấp.

Đồng thời, khách hàng tham gia chương trình "Thỏa sức tiêu dùng - An tâm kinh doanh" sẽ được ngân hàng miễn 100% phí mở thẻ ghi nợ quốc tế và thẻ tín dụng quốc tế ABBank Visa, miễn phí đăng ký dịch vụ Online Banking hoặc SMS Banking.

Với ưu đãi giảm lãi suất cùng chính sách cho vay đơn giản, linh hoạt, ngân hàng mong muốn khách hàng sẽ tiếp cận nguồn vốn vay dễ dàng hơn, nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh và đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng cá nhân.

Sacombank bổ nhiệm Phó Tổng giám đốc

Ông Nguyễn Bá Trị đảm nhiệm chức vụ này từ ngày 26/7. Chỉ trong 3 ngày, Sacombank đã bổ nhiệm mới 2 Phó TGĐ.
Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank - Mã STB) vừa công bố thông tin về việc thay đổi nhân sự Ban điều hành.

Theo đó, Sacombank bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Trị,  hiện là Giám đốc Sở giao dịch TPHCM, giữ chức vụ Phó Tổng giám đốc kể từ ngày 26/7.

>> Đã không còn Habubank nợ xấu - tham dự Hội chợ việc làm 2012
>> Chấm dứt Habubank nợ xấu đi đến thành công
>> Mờ dần Habubank nợ xấu - Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông Habubank

Trước đó, ngày 24/7, Sacombank cũng đã bổ nhiệm bà Nguyễn Thị Lệ An là Phó Tổng giám đốc.

 Như vậy, ngân hàng hiện có Tổng giám đốc là ông Phan Huy Khang và 13 Phó Tổng giám đốc, bao gồm:

- Bà Dương Hoàng Quỳnh Như

- Ông Nguyễn Minh Tâm

- Ông Đào Nguyên Vũ

- Bà Quách Thanh Ngọc Thủy

- Ông Lý Hoài Văn

- Ông Phạm Nhật Vinh

- Ông Lê Minh Tâm

- Bà Nguyễn Hải Tâm

- Ông Bùi Văn Dũng

- Ông Phan Đình Tuệ

- Bà Hà Quỳnh Anh

- Bà Nguyễn Thị Lệ An

- Ông Nguyễn Bá Trị.

Thứ Tư, 20 tháng 6, 2012

Mờ nợ xấu - Thương vụ sáp nhập hoàn tất giai đoạn 1

Không còn nỗi lo nợ xấu - Thương vụ sáp nhập hoàn tất giai đoạn 1 và đang trong tiến trình hoàn thiện hồ sơ, xin phép Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) cho phát hành thêm cổ phiếu.


Thông tin Ngân hàng Nhà nước chấp thuận về nguyên tắc việc sáp nhập Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội (Habubank) vào Ngân hàng TMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) tung ra cuối tuần qua, thực tế không làm nhiều người chú ý, bởi mọi công việc liên quan đến thương vụ này được dư luận mặc nhiên coi là đã an bài.

Tuy vậy, đối với người trong cuộc, Văn bản 3651/NHNN-TTGSNH ngày 15/6 của NHNN là một bước tiến cần thiết, nếu không muốn nói là quan trọng, bởi đây là văn bản chính thức đầu tiên của cơ quan quản lý nhà nước chấp thuận việc sáp nhập hai ngân hàng này. Trước đó, khi được hỏi về trường hợp của Habubank và SHB, lãnh đạo NHNN bày tỏ sự ủng hộ đối với giải pháp tái cơ cấu tự nguyện này, bởi nó phù hợp với định hướng tái cơ cấu hệ thống ngân hàng của NHNN, nhằm giảm bớt ngân hàng yếu kém và tăng năng lực cạnh tranh của cả hệ thống.

>> Việc sáp nhập xong giai đoạn đầu
>> Sáp nhập giúp Habubank không còn nợ xấu

Thứ Năm, 14 tháng 6, 2012

Ngân hàng nhà nước tuyên bố hạ lãi suất

Ngày 8/6, Ngân hàng Nhà nước thông báo hạ trần lãi suất huy động về 9% một năm. Một loạt lãi suất điều hành khác cũng được giảm theo. Như vậy, kể từ đầu năm, đây là lần thứ tư Ngân hàng Nhà nước tuyên bố giảm lãi suất. Sau 4 lần điều chỉnh về 13%, 12%, 11% và từ 11/6 là 9% một năm, lãi suất huy động đang gần chạm mức thấp của năm 2009 (mức 7% một năm).

Nhưng tính riêng 3 tháng gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã giảm lãi suất tới 3 lần. Theo Financial Times, việc liên tục giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước là kết quả từ những thông tin kinh tế vĩ mô tích cực gần đây của Việt Nam. Trong đó, một trong những cơ sở là lạm phát trong mấy tháng đầu năm liên tục giảm. CPI tháng 6 dự báo sẽ tăng khoảng 0,2% và cả năm lạm phát là 8%. Ngoài ra còn phải kể đến việc tổ chức đánh giá tín nhiệm Standard & Poor's nâng triển vọng tín nhiệm của Việt Nam lên “ổn định” từ mức “tiêu cực” do Việt Nam kiềm chế lạm phát thành công và ổn định kinh tế vĩ mô.

Ngay khi tuyên bố trần lãi suất giảm thêm một điểm phần trăm - lần hạ lãi suất thứ 4 trong năm - được đưa ra, Financial Times bình luận việc tiếp tục hạ lãi suất cho thấy Việt Nam đầy tin tưởng về khả năng kiềm chế lạm phát năm 2012. "Quyết định trên cho thấy Chính phủ đang vô cùng quyết tâm giải cứu ngân hàng và các doanh nghiệp", báo này viết.
Trước đó, nhiều chuyên gia cảnh báo tiến trình giảm lãi suất đang đi quá nhanh. Ngay trước thời điểm Thống đốc Nguyễn Văn Bình tuyên bố trần lãi suất về 9% một năm, Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam Victoria Kwakwa nhìn nhận: "Nếu một nền kinh tế rơi vào trạng thái tăng trưởng tín dụng âm thì là điều vô cùng quan ngại và phải chăng Việt Nam đã giảm lãi suất quá nhanh". Đại diện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam cũng cảnh báo việc hạ lãi suất là đồng nghĩa chấp nhận tốc độ tăng trưởng thấp hơn và Việt Nam nên tập trung ổn định giá cả thay vì liên tục giảm lãi suất.

Tuy nhiên, tờ Financial Times lại cho rằng không nên quá lo ngại nếu lãi suất giảm. Ngoài ra, trong báo cáo được công bố vài ngày trước đây, Ngân hàng JPMorgan Chase chi nhánh Singapore tin rằng, Việt Nam sẽ khuyến khích các ngân hàng cho vay nhiều hơn trong 6 tháng cuối năm bằng việc giảm thêm 2-3% lãi suất. Báo cáo của JPMorgan cho biết, khi lạm phát giảm nhanh như hiện nay, tăng trưởng tín dụng đang âm, Việt Nam giảm lãi suất là điều không đáng ngại.

Cùng quan điểm này, trao đổi với báo chí bên hành lang Quốc hội ngày 8/6, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nhìn nhận việc lãi suất giảm khá nhanh so với lộ trình đầu năm là một tín hiệu tốt. "Trước chỉ đặt ra mỗi quý giảm một điểm phần trăm nhưng từ đầu năm đến nay chúng ta đã hạ lãi suất liên tục như vậy là rất tích cực", Phó Thủ tướng bình luận.

Hiện nay, trong bối cảnh nợ công châu Âu vẫn tiếp tục đe dọa, các nhà hoạch định chính sách tiền tệ trên khắp thế giới đều cấp tập lên phương án vực dậy nền kinh tế đang có chững lại với tốc độ khủng khiếp nhất kể từ cuộc suy thoái cuối năm 2009. Hãng tin Bloomberg cho rằng Việt Nam không nằm ngoài xu thế này. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong quý đầu năm 2012 chỉ đạt 4%. Theo ước tính của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, tốc độ tăng trưởng cả năm chỉ khoảng 5,2%. Đây cũng là mức thấp nhất kể từ năm 1999, thời điểm GDP chỉ đạt 4,8%.
Bloomberg cũng dẫn lời Edwin Gutierrez, giám đốc quỹ đầu tư tại một công ty quản lý tài sản có trụ sở ở London: "Trước triển vọng lạm phát thấp như vậy, với những gì Ngân hàng Nhà nước đã làm cho thấy không có gì phải chê trách". Edwin chính là người trực tiếp tham gia giám sát 8 tỷ USD khoản nợ tại các nền kinh tế mới nổi, trong đó có cả trái phiếu của Việt Nam. "Vấn đề ở đây là việc giảm lãi suất sẽ mang lại những ảnh hưởng gì bởi cơn bão toàn cầu vẫn đang thổi ngược chiều vào vào Việt Nam", vị này đưa thêm cảnh báo.

Trên thực tế, các nhà điều hành của Việt Nam cũng tỏ ra khá thận trọng trước mỗi quyết định giảm lãi suất hoặc nới lỏng tài khóa. Trên diễn đàn Quốc hội hôm 8/6, nhiều đại biểu đề nghị tiếp tục nới lỏng tiền tệ, thậm chí giảm lãi suất cho vay xuống 10% khi mà doanh nghiệp đang giải thể hàng loạt vì thiếu vốn. Tuy nhiên, Thống đốc Nguyễn Văn Bình cho biết lãi suất huy động về mức 9% từ 11/6 là phù hợp với lạm phát dự kiến của cả năm nay (7-8%). Trong khi đó, ngân hàng chưa thể hạ lãi suất cho vay xuống thấp hơn nữa vì tình trạng nợ xấu gia tăng (đã lên đến 10% dư nợ) khiến chi phí vốn của bản thân ngân hàng cũng tăng cao.

Ông cũng nhấn mạnh các động thái hiện nay không phải là nới lỏng tiền tệ, mà là linh hoạt và thận trọng - mệnh đề luôn được Ngân hàng Nhà nước nhắc tới khi nói về việc điều hành chính sách tiền tệ.

Giờ giải lao của phiên thảo luận tình hình kinh tế xã hội hôm 8/6, nhiều đại biểu đã đem băn khoăn của mình chia sẻ trực tiếp với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng quyết định giảm lãi suất cần cân nhắc hài hòa giữa người gửi tiền và người cần vốn đầu tư.

"Sức khỏe của các doanh nghiệp hiện nay là điều rất đáng quan tâm, Chính phủ phải cân nhắc các giải pháp hỗ trợ. Nhưng nếu lãi suất vay vốn xuống 10% ngay lúc này, lãi suất huy động sẽ thấp hơn nữa, thử hỏi có còn đủ hấp dẫn để bà con gửi tiền vào ngân hàng?", Thủ tướng nói.

>> Habubank vững bước sau khi hết nợ xấu
>> Sạch nợ xấu khi Habubank sáp nhập cùng SHB

Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

20 năm vững tin phát triển


Cuối năm 1986, Ban chuẩn bị thành lập Ngân hàng phát triển nhà Hà Nội (tiền thân của Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội - Habubank ngày nay) được thành lập tại trụ sở Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội dưới sự chủ trì của Nguyên Phó Thống đốc Nguyễn Văn Chuẩn cùng với sự tham gia của đại diện Văn phòng Chính phủ, Ngân hàng Đầu tư và phát triển.

Tháng 7/1988, Tổng giám đốc Ngân hàng đầu tư và xây dựng Việt Nam ra quyết định số 192/TCCB-QĐ “lập ban chuẩn bị thành lập Ngân hàng chuyên hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà tại Thành phố Hà Nội”.
Tháng 12/1988, Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành quyết định số 139-NH/QĐ về “Điều lệ Ngân hàng phát triển Nhà Thành phố Hà Nội” đồng thời UBND Thành phố Hà Nội cũng ra Quyết định số 6719/QĐ-UB cho phép “Ngân hàng phát triển Nhà Thành phố Hà Nội được hoạt động kinh doanh trên địa bàn Thành phố Hà Nội kể từ ngày 2/1/1989”.
Tháng 1/1989, UBND Thành phố Hà Nội ra quyết định số 104/QĐ-UB về việc thành lập Ban trù bị Đại hội cổ đông lần thứ nhất của Ngân hàng phát triển Nhà Thành phố Hà Nội.

Tháng 3/1989, Tổng giám đốc Ngân hàng Đầu tư xây dựng Việt Nam ra Quyết định số 223/NHĐTXD/QĐ giao cho Giám đốc Ngân hàng Đầu tư xây dựng Hà Nội cùng 1 số cán bộ của Ngân hàng Đầu tư xây dựng Hà Nội sang công tác biệt phái tại Ngân hàng Phát triển Nhà Thành phố Hà Nội. Cũng trong thời gian này, Đại hội cổ đông lần thứ nhất đã diễn ra, bầu Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát đầu tiên.
Tháng 4/1989, Habubank chính thức khai trương hoạt động tại số 125 Bà Triệu, Hà Nội.


Tháng 6/1992, sau 3 năm hoạt động thử nghiệm, với sự ra đời của Pháp lệnh Ngân hàng và Hợp tác xã tín dụng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ra Quyết định số 104/QĐ-NH5 cho Phép Ngân hàng phát triển Nhà Thành phố Hà Nội trở thành một ngân hàng thương mại đa năng, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ đa dạng cho khách hàng và chính thức đổi tên thành Ngân hàng Thương mại Cổ phần Nhà Hà Nội với số vốn điều lệ là 5 tỷ đồng, thời gian hoạt động 99 năm. Theo đó, Trọng tài kinh tế Thành phố Hà Nội đã cấp giấy đăng ký kinh doanh cho Habubank số 055673.

Tháng 10/1992, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Quyết định số 215/QĐ-NH7 cho phép Habubank thực hiện một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ và làm dịch vụ ngân hàng bằng ngoại tệ.
Tháng 2/1993, Habubank chuyển trụ về số 57 Hàng Cót, Hà Nội.

Tháng 3/1995, Habubank hoàn thành việc phát hành cổ phiếu và tăng vốn điều lệ lên 24,3 tỷ đồng. Đến tháng 11, Habubank chuyển trụ sở về Tòa nhà B7 Giảng Võ, Hà Nội.

Tháng 3/1996, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Quyết định số 58/GP-NH5 cho phép Habubank tăng vốn điều lệ lên 50 tỷ đồng.. Tháng 5/1996, Habubank được mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài để thực hiện hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.

Tháng 2/1999, Habubank chính thức được Hiệp hội Ngân hàng cấp giấy chứng nhận là hội viên của Hiệp hội ngân hàng.

Tháng 8/2000, Habubank được Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cấp giấy chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi.

Năm 2001, Habubank hoàn thành việc trang bị phần mềm quản lý ngân hàng tập trung và trở thành một trong những ngân hàng đầu tiên của Việt Nam thực hiện việc quản lý dữ liệu tập trung và online toàn hệ thông. Cũng trong năm này, Habubank chính thức trở thành thành viên Hiệp hội viễn thông liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) và mở chi nhánh đầu tiên ngoài địa bàn Hà Nội: Chi nhánh Habubank Quảng Ninh trên cơ sở sáp nhập với Ngân hàng nông thôn Quảng Ninh.

Năm 2003, Habubank khai trương chi nhánh đầu tiên tại khu vực miền Nam - Chi nhánh Habubank Hồ Chí Minh.

Năm 2005, Habubank triển khai dịch vụ Ngân hàng tự động, phát hành thẻ Habubank Vantage, trang bị hệ thống ATM/POS và gia nhập liên minh thẻ VNBC nhằm mở rộng hệ thống chấp nhận thẻ với các ngân hàng thành viên, phục vụ khách hàng tốt hơn.

Tháng 4/2006, Habubank thành lập Công ty Chứng khoán và nhanh chóng trở thành một đơn vị hoạt động có uy tín trên thị trường bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Tháng 11, Habubank là một trong bốn ngân hàng đầu tiên tăng vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng. Cũng trong năm này, Habubank được Tạp chí The Banker - tạp chí chuyên ngành về tài chính ngân hàng (Anh) bình chọn là Ngân hàng Việt Nam của năm. Habubank giữ vững danh hiệu này trong 2 năm tiếp theo 2007, 2008.

Tháng 2/2007, Habubank hoàn thành việc lựa chọn ngân hàng Deutsche Bank (Đức) là đối tác chiến lược nước ngoài và tăng vốn điều lệ lên 2.000 tỷ đồng. Với những thành tích đã đạt được, Thủ tướng Chính Phủ đã trao tặng bằng khen cho Habubank vào tháng 10/2007.

Tháng 12/2008, Habubank đã vinh dự được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng Huân chương lao động hạng Ba.

Tháng 12/2009, Habubank hoàn thành việc tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỷ đồng và ra mắt chính thức Trung tâm dịch vụ khách hàng - mở ra một kênh tiếp cận sản phẩm, dịch vụ mới cho khách hàng của Ngân hàng ngoài thẻ và Internet.

Tháng 8/2010, phát hành thành công 10,5 triệu trái phiếu chuyển đổi (tương ứng 1.050 tỷ đồng).

Tháng 11/ 2010, Habubank chính thức niêm yết toàn bộ 300 triệu cổ phần, tương đương giá trị là 3.000 tỷ đồng lên sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội (HNX), mã cổ phiếu là HBB.
Tháng 9/2011, Habubank đã hoàn tất việc chuyển đổi 10,5 triệu trái phiếu phát hành tháng 8/2010 thành 105 triệu cổ phiếu phổ thông, nâng mức vốn điều lệ lên 4.050 tỷ đồng.

Tin liên quan:

Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

Chưa có cửa mua bán nợ xấu


Dù Chính phủ đứng ra mua lại hay để các công ty mua bán nợ vào cuộc, việc xử lý nợ xấu vẫn gặp nhiều khó khăn.


Theo ông Phạm Hồng Hải, Phó tổng giám đốc HSBC Việt Nam, giải pháp mua bán nợ xấu hiện nay khó thực hiện.

- Quan điểm của ông về ý kiến cho rằng Chính phủ nên đứng ra mua lại những khoản nợ xấu đó, lành mạnh hóa nó rồi sau đó bán lại?

- Sẽ khó thực hiện bởi nếu Chính phủ mua nợ xấu của một ngân hàng A với giá thấp sẽ gây ảnh hưởng lên định giá nợ xấu của ngân hàng khác. Trong khi đó, chưa chắc các ngân hàng đã mặn mà với giải pháp này. Ví dụ điển hình là thời điểm khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 - 2009, Chính phủ Mỹ có đưa giải pháp mua nợ của các ngân hàng, nhưng không hiệu quả, bởi mấy lý do sau. Thứ nhất, không ai dám bán, vì bán sẽ lộ ra là mình có nợ xấu. Thứ hai, chắc chắn Chính phủ muốn mua nợ xấu với giá có lợi cho đất nước; nhưng nếu giá quá thấp thì các ngân hàng không đồng ý, do sẽ phải chịu một khoản lỗ rất lớn cho khoản nợ đó. Do đó, Chính phủ Mỹ cuối cùng đã phải đưa ra giải pháp Ngân hàng Trung ương bỏ tiền mua lại cổ phần của các ngân hàng để vực lại niềm tin.

Bên cạnh đó, với giải pháp mua nợ xấu, Chính phủ cần phải bỏ ra một lượng vốn khá lớn. Tính bình quân, các chính phủ thường tiêu tốn khoảng 13% giá trị GDP khi tái cơ cấu hệ thống tài chính. Con số này trên thực tế có khả năng lớn hơn đối với một số nước, ví dụ Chính phủ Indonesia tiêu tốn 50% giá trị GDP hay hơn 30% tại Thái Lan hoặc nhỏ hơn như Malaysia, khoảng 5%.

- Cũng có ý kiến cho rằng, nên học hỏi kinh nghiệm mua bán nợ xấu của Trung Quốc, vì nước này có vẻ thực hiện thành công?

- Thực ra, chưa ai biết vấn đề nợ xấu của Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào. Vì Trung Quốc hiện nay vẫn tồn tại nợ xấu của các chính quyền địa phương, do bản thân các chính quyền địa phương vay rất nhiều, dùng khoản tiền đó để đầu tư vào các dự án trung - dài hạn, mà khoản vay lại là ngắn hạn. Đến lúc chính quyền địa phương không trả được nợ, thì tình hình nợ xấu của các ngân hàng tại Trung Quốc cũng sẽ khó kiểm soát.

- Như vậy, việc AMC mua lại nợ xấu ở Việt Nam sẽ rất khó thực hiện?

- Việc thực hiện thành công đòi hỏi các điều kiện nêu ở trên. Khi các điều kiện chưa thỏa mãn, các ngân hàng có thể chọn cách bán trực tiếp cho một người, chứ không rao bán trên thị trường.

Điều mà chúng ta kỳ vọng là sau khi hợp nhất, sáp nhập, người ta sẽ phải lành mạnh hóa sổ sách, giải quyết tất cả những gì còn tồn đọng. Tôi cho rằng, việc lập ra một tổ chức để mua lại nợ xấu là một sự lựa chọn, nhưng ở Việt Nam, nhiều khả năng là khó làm trong thời điểm hiện nay.

- Vậy ông đánh giá thế nào về các giải pháp hiện nay của NHNN trong việc xử lý các ngân hàng yếu kém?

- Về chính sách, việc NHNN áp trần tăng trưởng tín dụng là điều rất tốt trong việc lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng. Thay vì tăng trưởng tín dụng trước đây ở mức cao, giờ chỉ còn 17% hoặc thấp hơn. Do đó, các ngân hàng phải lựa khách hàng tốt nhất để cho vay, không phải tăng về lượng, mà phải tăng về chất. Bản thân việc này sẽ giúp nâng cao chất lượng tài sản của ngân hàng.

Bên cạnh đó, cần xem xét lại các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro. Theo Quyết định 493, các ngân hàng được quyền chọn việc xác định nợ xấu trên cơ sở định tính hoặc định lượng. Chính vì vậy, đến nay, rất ít ngân hàng lựa chọn phân loại nợ theo phương pháp định tính mà đa phần chọn phương pháp định lượng.

Tất nhiên, khi nâng chuẩn, những ngân hàng không đạt chuẩn sẽ phải sáp nhập. NHNN đã có hướng mở cho việc sáp nhập, hợp nhất. Đó cũng là một sự lựa chọn. Nếu bản thân ngân hàng chưa đủ sức, thì nên kết hợp với một ngân hàng mạnh hơn để tồn tại, chứ cứ cố chống chọi thì chưa chắc đã giữ lại được giá trị của bản thân trên thị trường.

Tuy nhiên, theo tôi, nên “mở” hơn cho các thành phần kinh tế tư nhân và ngân hàng nước ngoài tham gia, chỉ có như vậy mới đẩy nhanh được tiến trình này. Ví dụ, ở nước ngoài, khi các ngân hàng nước ngoài tham gia mua lại một ngân hàng yếu kém, xử lý nợ xấu…, các ngân hàng nước ngoài được mua tới 90%, thậm chí 100% cổ phần của ngân hàng yếu kém đó. Ở Việt Nam, theo quy định, sở hữu tối đa của một định chế tài chính nước ngoài tại các ngân hàng trong nước chỉ là 20%, rất khó để họ tham gia thay đổi và nâng cấp tổ chức tín dụng yếu kém.

Chủ Nhật, 13 tháng 5, 2012

Phương án sáp nhập giữa Habubank và SHB

Trong hơn 1 tháng qua trên thị trường luôn trong tình trạng hoang man về khả năng Habubank và SHB về cùng một nhà. Nhưng sau nhiều bàn bạc, cân nhắc thì cuối cùng các cổ đông Habubank cũng đưa ra quyết định tán thành phương án sáp nhập giữa Habubank và SHB để giải quyết vấn đề xoá hết nợ xấu của Habubank.


Sau khi thủ tục sáp nhập giữa hai ngân hàng Habubank và SHB hoàn tất thì ngân hàng mới sẽ có tên là NHTMCP Sài Gòn – Hà Nội (SHB) có vốn điều lệ lên tới gần 9.000 tỷ đồng, quy mô tổng tài sản trên 100.000 tỷ đồng với hơn 500.000 khách hàng và 5.000 nhân viên...

Cũng theo dự thảo sáp nhập, các chủ sở hữu cổ phần của Habubank sau khi sáp nhập vào SHB sẽ được hoán đổi cổ phiếu theo tỷ lệ 1 cổ phần HBB bằng 0,75 cổ phần SHB. Tổng số cổ phần mà cổ đông HBB nhận khi hoán đổi sẽ được làm tròn theo nguyên tắc làm tròn xuống số nguyên gần nhất.

Nếu thương vụ giữa SHB và Habubank thành công thì đây sẽ là thương vụ hợp nhất ngân hàng thứ 2 sau vụ hợp nhất giữa ba Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB), Ngân hàng Đệ Nhất (Ficombank), Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa (TinNghiaBank) hồi tháng 12/2011.

Thứ Năm, 10 tháng 5, 2012

Xoá nợ xấu - Habubank cùng SHB tiến bước

Theo Đề án sáp nhập sẽ trình ĐHCĐ thường niên sắp tới của Habubank, xu hướng sáp nhập với các tổ chức tín dụng (TCTD) khác nhằm mở rộng quy mô và danh tiếng của ngân hàng trên thị trường đang được đẩy mạnh nhanh chóng và được sự ủng hộ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Việc sáp nhập cũng tạo cơ hội tốt cho ngân hàng thực hiện quá trình tái cơ cấu một cách toàn diện nhằm tạo ra một diện mạo mới cho ngân hàng sẵn sàng để phát triển sau giai đoạn kinh tế khủng hoảng.

Theo Habubank, việc sáp nhập sẽ mang lại những lợi ích to lớn với bản thân HBB nói riêng và 2 ngân hàng nói chung do sẽ đạt được những lợi ích quan trọng như: Sẽ giúp 2 ngân hàng sáp nhập tiến tới trở thành một định chế tài chính vững mạnh và thương hiệu cũng mạnh hơn, Habubank sẽ không còn nợ xấu. Hai ngân hàng sẽ có cơ hội để cùng điều hành một doanh nghiệp có quy mô lớn hơn và có sức cạnh tranh tốt hơn sau giai đoạn sáp nhập.

Việc sáp nhập sẽ giúp mở rộng khả năng phát triển dịch vụ, đặc biệt là hoạt động bán lẻ do mạng lưới phân phối dịch vụ, thị phần lớn hơn. Bên cạnh đó, sẽ bổ sung thêm lợi thế về quy mô trong phát triển kinh doanh, quản lý chi phí.

Những điểm mạnh của ngân hàng nhận sáp nhập sẽ hỗ trợ cho Habubank và ngược lại Habubank có nhiều điểm mạnh để hỗ trợ ngân hàng nhận sáp nhập…

Ngoài ra, còn nhận được sự hỗ trợ và quan tâm của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình sáp nhập do việc sáp nhập nằm trong chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

Nếu tiến hành sáp nhập thành công, theo Habubank, kế hoạch này sẽ tạo ra một định chế tài chính có khả năng tồn tại và phát triển. Định chế này có vốn điều lệ khoảng gần 9.000 tỷ đồng và quy mô tổng tài sản trên 100.000 tỷ đồng, hoạt động khắp các tỉnh thành lớn trong cả nước; có số lượng khoảng 500.000 khách hàng; khoảng 5.000 nhân viên; có các công ty con, có khả năng cung cấp các hoạt động hỗ trợ, gia tăng lợi ích cho khách hàng và tăng thu nhập ngoài lãi cho ngân hàng; có địa bàn hoạt động trong khu vực Đông Dương với các chi nhánh tại Lào và Campuchia; có sự hậu thuẫn mạnh mẽ và có các khách hàng hoạt động trong những lĩnh vực cốt lõi cho sự phát triển của nền kinh tế như: than, khoáng sản, cây công nghiệp (cao su), phát triển hạ tầng và một lực lượng đông đảo các khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong các ngành kinh tế khác nhau; có khả năng cung cấp các dịch vụ hiệu quả và an toàn cho một khối lượng lớn các khách hàng cá nhân...

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2012

Nợ xấu - đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng


(Habubank - vnexpress.net) Nợ xấu là một nhân tố giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng.
Đây là đánh giá của TS. Trịnh Quang Anh, Giám đốc nghiên cứu kinh tế - Ngân hàng Hàng hải (Maritime Bank), trong tham luận tại diễn đàn “Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cơ cấu nền kinh tế” do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức tại Đà Nẵng trong hai ngày 8 và 9/4. Trong tham luận của mình, ông Trịnh Quang Anh thông tin.


Theo Thông tư số 35, chậm nhất ngày 15/6/2012 tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế sẽ được Ngân hàng Nhà nước công bố. Trước thời điểm này, một số phân tích độc lập cũng đã ước tính những con số đáng tham khảo.

Tuần rồi, hãng định mức tín nhiệm quốc tế Fitch Ratings cho rằng tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có thể cao gấp 4 lần con số 3,3% được công bố. Ở đây có sự khác biệt quá lớn, có thể xuất phát từ cơ sở phân loại theo các tiêu chuẩn quốc tế hoặc tiêu chuẩn của Việt Nam. Còn nếu theo tỷ lệ 3,3%, con số nợ xấu của hệ thống ước tính là hơn 90.000 tỷ đồng.

Chúng tôi ước tính, nếu hạch toán đúng và áp dụng chuẩn quốc tế về phân loại nợ, nợ xấu ngân hàng thực chất sẽ đạt tới mức ít nhất là 10% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế, tức khoảng trên 10 tỷ USD, chiếm gần 10% GDP hiện hành của Việt Nam”.

Và quan ngại được đưa ra, nếu so sánh mức nợ xấu này với mức vốn tự có đã điều chỉnh theo quy định hiện hành cộng với quỹ dự phòng rủi ro tín dụng đã được trích lập, tỷ lệ này sẽ vượt quá 50% - mức báo động đỏ. Nhìn nhận này được diễn giải thêm, nhiều tổ chức tín dụng thực chất đã bị cụt hết vốn (hệ số CAR âm), tức đã mất khả năng thanh toán nhưng vẫn tạo vỏ bọc bên ngoài là chỉ bị khó khăn về thanh khoản.

Trong tổng số dư nợ cho vay bất động sản của các tổ chức tín dụng được báo cáo - hiện khoảng trên 200.000 tỷ đồng (chưa tính các khoản cho vay dưới hình thức đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, đảo nợ qua ủy thác đầu tư…), số đầu tư vào phân khúc phát triển dự án xây dựng và đầu cơ bất động sản ước chiếm tới 90%. Trong bối cảnh thị trường bất động sản tiếp tục đóng băng, sụt giá và chưa có dấu hiệu hồi phục tới cuối 2012, riêng nợ xấu từ khu vực này có thể chiếm tới 60% tổng nợ xấu ngân hàng.

Nợ xấu gia tăng tạo thêm áp lực cho khó khăn thanh khoản; sức ngân hàng yếu đi và dễ bị “dồn” đến yêu cầu tái cơ cấu, nhất là khi các cửa tìm vốn bị siết lại.

Thanh khoản hệ thống vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn do vấn đề nợ xấu ngân hàng chưa thể được giải quyết sớm. Thêm vào đó, sự kiện trần lãi suất huy động được tái áp đặt đầu tháng 9/2011 đã đẩy hệ thống vào nguy cơ rủi ro cao hơn khi mà vấn đề thanh khoản hệ thống chưa được giải quyết, và chắc chắn chưa thể được giải quyết sớm khi gốc của vấn đề là chất lượng tài sản ngân hàng thấp và có nguy cơ ngày càng xấu đi (chủ yếu do các yếu tố ngoại sinh: điều kiện vĩ mô chưa được cải thiện vững chắc, các thị trường tài sản tiếp tục suy giảm hoặc đóng băng, sản xuất có dấu hiệu rơi vào đình trệ...).

Với các ngân hàng yếu kém, từ gánh nặng nợ xấu gia tăng, thanh khoản trở nên ngột ngạt hơn khi cộng thêm khó khăn huy động vốn với trần lãi suất. Tình thế buộc phải vượt trần có từ đây. Nhưng đó không phải là con đường chính yếu và lâu dài, họ buộc phải dựa vào huy động ở thị trường 2 - liên ngân hàng.

Thế nhưng, nợ xấu liên ngân hàng nổi lên. Các điều kiện cầm cố, thế chấp xuất hiện phổ biến và thị trường liên ngân hàng rơi vào tình trạng “đóng băng”. Lãi suất liên ngân hàng vừa qua có xu thế giảm khá rõ rệt, tuy nhiên không phán ánh đúng cung - cầu vốn khi mà phạm vi lẫn quy mô của thị trường bị thu hẹp do các ngân hàng hạn chế cho vay và tập trung thu hồi nợ liên ngân hàng đã khiến khối lượng giao dịch sụt giảm.

Và điểm đến cuối cùng là: “Một số ngân hàng thiếu hụt thanh khoản, khi không thể huy động được vốn trên cả thị trường 1 lẫn thị trường 2, đường cùng đã buộc phải tìm đến cửa sổ tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước và chấp nhận các điều kiện kiểm soát khắt khe hay yêu cầu tái cơ cấu của cơ quan quản lý”.

Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là: “Khi đã ‘dồn’ được một số ngân hàng yếu kém vào tái cơ cấu, chi phí sẽ hết bao nhiêu và lấy tiền ở đâu, rộng hơn là để tái cơ cấu cả hệ thống?”.

“Giả thiết tổng chi phí tái cấu trúc hệ thống tổ chức tín dụng chiếm khoảng 15-20% GDP và ít nhất 60% số tiền này phải có ngay trong năm 2012 để trước hết là làm sạch bảng cân đối kế toán của các tổ chức tín dụng, nếu vậy, nguy cơ phải cầu viện đến sự giúp đỡ của các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, là hoàn toàn hiện hữu. Khi đó, sự suy giảm chủ quyền trong quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng cũng như nguy cơ thị phần hoạt động của các tổ chức tín dụng trong nước bị chiếm lĩnh bởi các ngân hàng và nhà đầu tư nước ngoài là dễ nhận thấy.

Thứ Năm, 3 tháng 5, 2012

Bài toán xử lý nợ xấu


Habubank - Tình hình có thể sẽ khó khăn hơn do ảnh hưởng từ kinh tế toàn cầu suy giảm. Có lẽ đã đến lúc tính đến bài toán xử lý nợ xấu.


Thấy gì từ cách làm của nước ngoài?

Gần đây có tin một số ngân hàng lớn của Mỹ (JPMorgan và Bank of America chẳng hạn) đã bắt đầu nỗ lực hoãn các vụ tịch thu tài sản để trả nợ và nỗ lực làm việc với các chủ nợ để họ vẫn có thể trả tiền.

Các biện pháp phổ biến là giảm lãi suất và giảm giá trị các khoản chi trả để người vay tiền vẫn có thể trả tiền và “không bị ném ra khỏi nhà” (nếu dùng nhà để thế chấp cho khoản vay). Liệu các ngân hàng của Việt Nam có nên giãn nợ, kéo dài kỳ hạn cho vay, giảm lãi suất hay khoan đòi nợ quá gấp một số người đi vay như các ngân hàng ở Mỹ?

Mặt khác, Mỹ và châu Âu cũng đã bơm tiền vào các ngân hàng, nhờ đó nhiều ngân hàng lớn đã mua lại các ngân hàng và tổ chức tín dụng nhỏ đang trên bờ vực phá sản. Hành vi thâu tóm và mua lại như vậy có thể giúp những chính sách hỗ trợ khách hàng của ngân hàng lớn áp dụng luôn cho khách hàng của ngân hàng nhỏ.

Đây là gợi ý rất tốt cho việc xử lý tình hình nợ xấu của ngân hàng Việt Nam. Nếu sắp tới nhiều ngân hàng gặp khó khăn do các khoản nợ xấu bắt nguồn từ doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và xuất khẩu, thì các ngân hàng ít gặp vấn đề hơn có thể mua lại các ngân hàng có vấn đề, đồng thời Nhà nước có thể tính đến giải pháp hỗ trợ thanh khoản và vốn cho ngân hàng còn khỏe mạnh.

Có ý kiến cho rằng những giải pháp cứu thị trường của Mỹ là không thấm vào đâu, và chỉ là cầm máu tạm thời cho vết thương quá lớn. Nhưng rõ ràng là, bị thương chảy máu nhiều mà không cầm máu thì chết mất.

Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống và tạo điều kiện cho ngân hàng còn khỏe mua lại ngân hàng gặp vấn đề, để rồi các ngân hàng thỏa thuận với người vay để có một giải pháp đảm bảo người vay vẫn có thể trả nợ dần dần mà không bị siết nợ đến nỗi bị tịch thu tài sản hay phá sản. Điều này đặc biệt quan trọng nếu tình hình nợ xấu lan sang khu vực xuất khẩu.

Một giải pháp cũng có thể nghĩ đến là ngân hàng cho các khách hàng mới vay để mua lại các tài sản của khách hàng cũ với thời hạn vay dài hơn. Đương nhiên, khách hàng mới phải khỏe mạnh hơn khách hàng cũ.


Đặc điểm riêng của Việt Nam

Tuy có thể rút ra một số gợi ý từ cách làm của nước ngoài, nhưng cũng nên thấy những đặc điểm riêng của Việt Nam.

Thứ nhất, nợ xấu đối với lĩnh vực bất động sản của Việt Nam có điểm khác biệt với nợ xấu của các khoản cho vay thế chấp nhà ở tại Mỹ. Đó là một số dự án bất động sản của Việt Nam còn đang ở trên giấy, chứ không phải căn nhà hẳn hoi.

Mặt khác, các bất động sản của Việt Nam được bản thân doanh nghiệp và các nhà đầu cơ đẩy giá lên, vượt quá nhiều so với giá trị thật của chính bất động sản đó. Cho nên, độ rủi ro của chúng có thể là tương tự những chứng khoán được hình thành từ các khoản vay thế chấp bất động sản dưới chuẩn, chứ không phải là độ rủi ro của chính các khoản vay này. Nói cách khác, những dự án này tương tự như những tài sản “độc hại” của Mỹ.

Và kinh nghiệm của Mỹ cho thấy bỏ tiền vào cứu bản thân những tài sản “độc hại” này không phải là một cách tốt, mà nên bỏ tiền vào hỗ trợ ngân hàng, sau đó ngân hàng lại hỗ trợ cho người đi vay, chứ không phải là cho các tài sản “độc hại”. Nói cách khác, muốn hỗ trợ người đi vay của Việt Nam, cũng nên lựa người mà hỗ trợ.

Những tài sản “độc hại” kiểu dự án trên giấy có lẽ không nên cứu mà nên ưu tiên tín dụng cho xuất khẩu, kế đến là các khoản vay phát triển dự án bất động sản đáp ứng nhu cầu thực sự, loại bỏ những dự án đầu cơ và trên giấy. Muốn đạt được sự sàng lọc này, phải xuất phát từ chất lượng quản trị của ngân hàng, một điều có thể đạt được thông qua việc sáp nhập các ngân hàng.

Đặc điểm thứ hai là người Việt Nam ít chịu minh bạch thông tin. Ngân hàng, doanh nghiệp đều không minh bạch thông tin cho nhau, nên khó mà thương thảo (không tin nhau thì làm sao mà thương lượng). Về mặt này, vấn đề phụ thuộc vào năng lực của ngân hàng và doanh nghiệp.

Một số ngân hàng Việt Nam hiện nay đang chuyển đổi các khoản nợ kỳ hạn ngắn sang kỳ hạn dài, vẫn tiếp tục cho vay mà tài sản đảm bảo là bất động sản, nhằm tăng vòng quay vốn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể trả lãi và vốn được.

Bên cạnh đó, với việc giảm lãi suất cơ bản và dự trữ bắt buộc, chúng ta cũng đang dần nhận ra tín hiệu cho thấy việc “xích lại gần hơn” giữa doanh nghiệp và ngân hàng. Các ngân hàng vẫn có thể chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu nào đó để có thể tiếp tục tài trợ cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có phương án kinh doanh khả thi.

Vấn đề là, cần có giải pháp dự phòng trong tình huống thanh khoản các ngân hàng gặp khó khăn, cần đến vai trò của “người cho vay cuối cùng” là Ngân hàng Nhà nước.

Muốn gỡ nút thắt này, vấn đề cuối cùng, xem ra phải quay về những người thắt nút. Ai giỏi gỡ nút thì nên được Ngân hàng Nhà nước hỗ trợ nhiều hơn. Ai mà thắt nút chặt quá, giờ tự gỡ không ra, mà không chịu chấp nhận có người đến gỡ phụ (để ngân hàng khác mua lại hay đầu tư vào), thì nên bị trừng phạt.

Vấn đề có lẽ sẽ nan giải hơn nếu những ngân hàng có nhiều nợ xấu lại là ngân hàng quốc doanh, vì khó có thể để tư nhân mua lại ngân hàng quốc doanh. Khi đó có lẽ phải cấu trúc lại giữa các ngân hàng quốc doanh với nhau mà thôi, nghĩa là để các ngân hàng quốc doanh “hỗ trợ” lẫn nhau, nhưng ai đã gặp nhiều nợ xấu quá thì phải chịu “kỷ luật”, ví dụ như phải trả lãi suất cao hay ban giám đốc phải chịu trách nhiệm.

Giám đốc ngân hàng tư nhân không tròn trách nhiệm thì bị áp lực “kỷ luật thị trường” từ phía cổ đông, giám đốc ngân hàng quốc doanh mà không tròn trách nhiệm thì sẽ chịu kỷ luật gì đây?